Câu Chuyện Thầy Lang - Bệnh Của Động Mạch Vành

 Động mạch vành ( Coronary Artery) là những mạch máu chạy quanh trái tim để nuôi cơ quan này. Sau mỗi nhịp tim đập thì máu được đưa đi nuôi khắp cơ thể qua động  mạch chủ. Riêng máu nuôi tim thì được chuyển trực tiếp vào động mạch  vành. Các động mạch này gồm hai nhánh bao chung quanh trái tim như một  cái vương miện. Nếu một trong những phân nhánh bị nghẹt thì tế bào tim ở  vùng đó thiếu dinh dưỡng, thiếu dưỡng khí (oxy). Đó là sự thiếu máu cục  bộ cơ tim (myocardial ischemia) và người bệnh sẽ có những cơn đau thắt  tim (angina pectoris). Nếu động mạch bị nghẽn vĩnh viễn thì cơn suy tim sẽ xẩy ra vì Nhồi  máu cơ tim (myocardial infarction) và tế bào tim bị tiêu hủy.

Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân đưa tới sự tắc nghẽn động mạch vành.

Trong đa số các trường hợp, có những mảng chất béo dần dần đóng lên  thành động mạch. Lòng mạch máu ngày một thu hẹp khiến cho máu lưu thông  giảm đi, rồi sau một thời gian sẽ gián đoạn hẳn. Đó là hiện tượng vữa xơ  động m ạch ( atherosclerosis).

Vữa xơ không phải xẩy ra bất thình lình mà từ từ diễn tiến cả chục  năm. Đôi khi, sự tác nghẽn bắt đầu ngay từ khi còn trẻ, nhưng chưa đủ  trầm trọng để đưa tới bệnh tim ở tuổi trung niên.

Vữa xơ là nguyên nhân chính của cơn suy tim, tai biến động mạch não,  hoại thư (gangrene) đầu ngón chân, ngón tay. Các mạch máu dễ bị vữa xơ  nhất là động mạch chủ nơi bụng ( abdominal aorta), động mạch vành và  động mạch não.

Nguyên nhân của Vữa Xơ Động Mạch chưa được xác định rõ,  nhưng theo  kết quả nhiều nghiên cứu thì chất béo trong máu và các yếu tố sau đây là  những nguy cơ có khả năng gây bệnh:

a-Tuổi tác.

Hơn 50% trường hợp bệnh động mạch vành xẩy ra ở người trên 65 tuổi, cho nên nguy cơ bệnh tim tăng theo tuổi tác.

b-Giới tính.

Theo thống kê thì nam giới trên 45 tuổi thường bị bệnh tim mạch nhiều  hơn nữ giới, nhưng sau tuổi mãn kinh của nữ giới thì tỷ lệ mắc bệnh gần  như  nhau.

Nam giới thường có lượng cholesterol LDL cao hơn và HDL thấp hơn, một  phần do tác dụng của kích thích tố nam Testosterone. Còn nữ giới thì  một phần được sự bảo vệ của kích thích tố nữ estrogen, làm giảm  cholesterol LDL. Khi mãn kinh, người phụ nữ không còn kích thích tố nữ  thì cholesterol LDL nhích lên cao.

c- Di truyền.

Vữa xơ động mạch đôi khi thấy ở nhiều người trong gia đình, nhất là khi bố mẹ hoặc anh chị em bị bệnh.

d- Chủng tộc.

Người châu Á  ít bị vữa xơ động mạch và cơn suy tim hơn người Âu Mỹ;  người Mỹ gốc  châu Phi lại hay bị bệnh tim vì họ bị cao huyết áp nhiều  hơn.

e- Thuốc lá.

Nicotine trong thuốc là làm tăng huyết áp và nhịp tim, làm máu dễ  đóng cục, làm giảm HDL, tăng LDL, tất cả đều có thể đưa tới bệnh tim  mạch. Nicotine là một trong nhiều yếu tố khởi sự làm hư hao tế bào động  mạch, đưa đến vữa xơ mạch máu này. Hít thở khói thuốc lá do người khác  thải  cũng có hại. Bỏ hút thuốc lá sẽ làm giảm nguy cơ benh tim mạch một  cách đáng kể.

g- Béo phì.

Thống kê cho hay người béo phì hay bị cao huyết áp, bệnh tim, cao cholesterol và do đó thường bị suy tim.

h- Cao huyết áp.

Huyết áp càng cao thì nguy cơ suy tim và vữa xơ động mạch càng tăng, nhất là khi kèm theo nghiện thuốc lá và béo phì. Áp suất lên cao làm yếu  thành mạch máu, đưa tới hư hao,  đóng bựa chất béo và các  chất khác  lên thành động mạch.

i-Bệnh tiểu đường.

Người bị bệnh tiểu đường thường có nhiều nguy cơ bị các bệnh tim mạch  như cơn suy tim, cao huyết áp, chất béo HDL thấp và triglyceride cao. 

k- Ít  vận động cơ thể-

Người ít vận động cơ thể có nguy cơ bị bệnh Động Mạch Vành nhiều gấp  đôi người năng vận động. Sự vận động làm giảm sự hóa vữa xơ, tăng máu  lưu thông tới tim, tăng HDL, giảm béo phì, giảm cao huyết áp.

l-Cao cholesterol.

Vai trò của cholesterol trong bệnh tim mạch đã được nghiên cứu sâu  rộng trong những thập niên qua với nhiều dẫn chứng khoa học về vấn đề  này.

Mức cholesterol trong máu lên tới 240mg/dl là nguy cơ lớn đưa tới vữa  xơ động mạch rồi cơn suy tim và tai biến động mạch não. Nguy cơ càng  cao khi cholesterol càng nhiều trong máu.

Ngoài tổng lượng cholesterol, các thành phần của chất béo này cũng  quan trọng. Đó là các dạng cholesterol LDL (low density lipoprotein),  HDL (hight density lipoprotein), Triglyceride.

Protein là chất vận chuyển lipid và  hỗn hợp đó có tên  là  lipoprotein. Tỷ trọng (density) là tỷ lệ protein/lipid. Khi nhiều  protein (high density) thì là HDL , ít protein (low density) thì là LDL.

Trong tổng lượng cholesterol thì từ 60-70% là LDL, 20-30% là HDL, 10-15% là VLDL.

Cholesterol ở mức độ dưới 200mg/dl là lý tưởng; 200-239 còn tạm chấp  nhận được, chứ lên trên 240 thì là rất cao và có nguy cơ gây bệnh.

LDH thường được coi như không tốt  vì nó là thành phần gây nhiều rắc  rối cho hệ tim mạch. Cholesterol này đưa chất béo trong thực phẩm vào  các tế bào. Khi tế bào hết chỗ chứa thì chất béo đóng vào lòng động  mạch, lâu dần đưa tới vữa xơ, tắc nghẽn.

Mức độ lý tưởng của LDL trong máu là dưới 130mg/dl; 130-159 mg/dl là bắt đầu có vấn đề; và lên cao hơn 160mg/dl là nguy hiểm.

HDL vận chuyển chất béo vào dự trữ trong gan để cho  lượng chất béo  trong máu chỉ đủ dùng, không có dư để đóng vào thành động mạch.Lượng   HDL trong máu mà bằng hoặc cao hơn 35mg/dl là tốt, nếu HDL có thể cao  hơn 60mg/dl thì thật lý tưởng và an toàn.

Bình thường, cơ thể sản xuất đủ số cholesterol mà ta cần. Cholesterol  đo trong máu có tới 85% là do cơ thể tự tạo; còn lại 15% là do thực  phẩm cung cấp.

Vì thế,  cholesterol trong máu có thể lên cao nếu ta tiêu thụ nhiều  cholesterol và các chất béo bão hòa. Hậu quả là sự  đóng mảng trong lòng  động mạch. Khi nghẹt động mạch vành, ta bị cơn suy tim (Heart attack).  Khi một mảng chất béo ở động mạch nào đó chạy lên não thì gây ra tai  biến động mạch não (Stroke ).

Kết luận.

Cao cholesterol là rủi ro chính yếu đưa tới bệnh tim mạch.

Kiểm soát cholesterol là việc làm lâu dài, cần kiên nhẫn với các phương pháp được nhiều nhà chuyên môn dinh dưỡng công nhận.

Nên dè dặt với những giới thiệu, quảng cáo chữa khỏi hoàn toàn mà  không cần thuốc hoặc một chế độ ăn uống nhiều chất này, bỏ chất kia.

Dinh dưỡng trong bệnh tật cũng như trong sức khỏe cần sự đa dạng, vừa phải, phối hợp của nhiều thực phẩm khác nhau.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Texas- Hoa Kỳ

www.bsnguyenyduc.com